Thời Trung cổ Lịch_sử_Áo

Sơ kỳ Trung cổ: Công quốc Bayern (thế kỷ VIII - X)

Huyện biên giới Avar (Awarenmark) ở phía đông Bayern nằm giữa sông Danube và sông Drava
  Austrasia thuộc Francia năm 774
  LombardBayern, lãnh thổ được Charlemagne hợp nhất năm 788
  Các nước phụ thuộc
Đế chế La Mã Thần thánh vào thế kỷ 10 với các huyện biên giới của Bayern gồm cả Kärnten.

Dù giành được độc lập tạm thời vào năm 717 sau Công nguyên, mối quan hệ của người Bayern với người Frank thay đổi và Bayern bị khuất phục bởi Charles Martel. Cuối cùng, Charlemagne (là Hoàng đế từ 800–814) phế truất công tước cuối cùng của nhà Agilolfinger là Tassilo III. Nhà Carolus nắm quyền kiểm soát trực tiếp vào năm 788 sau Công nguyên. Từ đó, các vị vua Bayern không còn được kế vị. Charlemagne sau đó đã lãnh đạo người Frank và người Bayern chống lại người Avar ở phía đông vào năm 791 để rồi đến năm 803, người Avar đã lùi về phía đông sông Fischasông Leitha.[11] Những cuộc chinh phạt này cho phép thiết lập một hệ thống huyện biên giới phòng thủ (biên giới quân sự) từ sông Danube đến Adriatic.[13] Vào khoảng năm 800 sau Công nguyên, Österreich hay "Vương quốc phía Đông" được sáp nhập vào Đế chế La Mã Thần thánh.[6]

Trong số các huyện biên giới phía đông, huyện biên giới Avar (Awarenmark) gần tương ứng với vùng Hạ Áo ngày nay, giáp với các sông Enns, Raab và Drava, phía nam là huyện biên giới Kärnten. Cả hai huyện biên giới được gọi chung là Marcha orientalis (huyện biên giới phía Đông), một quận của Công quốc Bayern. Năm 805, người Avar, đứng đầu là Khả hãn Avar với sự cho phép của Charlemagne đã định cư từ phía đông nam Vienna.[14]

Mối đe dọa mới xuất hiện vào năm 862 khi người Hungary sau khi bị đẩy khỏi các lãnh thổ ở phía đông bởi các lực lượng vượt trội hơn. Đến năm 896, người Hungary sinh sống tập trungĐồng bằng Hungary. Từ đó, họ đánh phá các vùng của người Frank. Họ đã đánh bại người Morava và đã đánh bại người Bayern trong trận Pressburg vào năm 907 và đến năm 909, họ đã tràn ngập các huyện biên giới buộc người Frank và người Bayern lui trở lại sông Enns.[13]

Bayern trở thành một Phiên hầu quốc dưới thời Engeldeo (890–895) và được tái lập thành Công quốc dưới thời Arnulf Xấu xa (907–937), người đã hợp nhất nó với Công quốc Kärnten và chiếm hầu hết các vùng phía đông dãy Alps nhưng chỉ giữ được trong một thời gian ngắn. Con trai ông là Eberhard (937–938) đã xung đột với Vua Đức Otto I (Otto Đại đế). Otto sau đó đã phế truất ông. Công tước tiếp theo là Heinrich I (947–955), là anh trai của Otto. Năm 955, Otto I đã thành công trong việc đẩy lùi quân Hungary trong trận Lechfeld, bắt đầu một quá trình tái chiếm từ từ các vùng đất phía đông như IstriaKrain (tiếng Ý: Carniola).

Dưới thời trị vì của con trai Heinrich là Heinrich II (Người đưa thư) (955–976), Otto trở thành Hoàng đế La Mã Thần thánh đầu tiên (962) và Bayern trở thành một công quốc của Đế chế La Mã Thần thánh. Otto I tái thiết lập huyện biên giới phía đông và được kế vị bởi Otto II vào năm 967 và xung đột với Heinrich, người mà ông đã phế truất, tổ chức lại các công quốc của đế chế của mình.

Otto đã thu hẹp đáng kể Bayern, tái lập Kärnten ở phía nam. Ở phía đông, ông thành lập một huyện biên giới Đông Bayern mới mà sau đó được gọi là Áo dưới thời của Leopold (Luitpold), bá tước nhà Babenberg vào năm 976. Leopold I, còn được gọi là Leopold Vinh quang (Luitpold der Erlauchte) cai trị Áo từ năm 976–994.

Triều đại nhà Babenberg

Bài chi tiết: Nhà Babenberg
Công quốc Bayern năm 976 sau Công nguyên

Phiên hầu quốc (976–1156)

Bài chi tiết: Phiên hầu quốc Áo
Ostarrîchi trong tài liệu từ thời Otto III.Công quốc Bayern (Bajovaria), Phiên hầu quốc Ostarrichi và Công quốc Carantania c. 1000 AD.

Các huyện biên giới được giám sát bởi một comes hoặc dux theo chỉ định của hoàng đế. Những tước hiệu này thường được dịch là bá tước hoặc công tước nhưng những thuật ngữ này truyền đạt những ý nghĩa rất khác nhau vào Thời kỳ Sơ kỳ Trung cổ. Vì vậy, các phiên bản tiếng Latinh sẽ được ưa thích hơn. Ở các nước nói tiếng Lombard, tước hiệu cuối cùng đã được chính thức hóa thành margrave (Phiên hầu tước, tiếng Đức: markgraf), nghĩa là "bá tước huyện biên giới".

Lần đầu tiên tên gọi 'Áo' xuất hiện là vào năm 996 là trong một tài liệu của Vua Otto III được viết là Ostarrîchi, chỉ lãnh thổ của huyện biên giới của nhà Babenberg. Ngoài ra, trong một thời gian dài, tên Osterlant (Ostland hoặc Eastland) cũng đã được sử dụng, dân chúng được gọi là Ostermann hoặc Osterfrau. Tên gọi Latin hóa Austria xuất hiện trong các tác phẩm của Thế kỷ 12 vào thời Leopold III (1095–1136). (khác với Austrasia là tên của phần đông bắc của Đế chế Francia). Thuật ngữ Ostmark không chắc chắn về mặt lịch sử và dường như là một bản dịch của marchia orientalis chỉ xuất hiện sau đó.

Nhà Babenberg theo đuổi chính sách định cư, phát quang rừng rậm, thành lập các thị trấn và tu viện. Ban đầu, họ cai trị huyện biên giới từ Pöchlarn và sau đó từ Melk, liên tục mở rộng lãnh thổ về phía đông dọc theo thung lũng sông Danube. Đến năm 1002, lãnh thổ của họ đã trải dài đến Vienna. Việc mở rộng về phía đông cuối cùng đã bị chặn lại bởi những người Hungary mới được Cơ đốc giáo hóa vào năm 1030 khi Vua István I (1001–1038) của Hungary đánh bại Hoàng đế Conrad II (1024–1039) tại Vienna.

Lãnh thổ 'cốt lõi' cuối cùng đã được hình thành. Vùng đất này có tàn tích của nhiều nền văn minh trước đó nhưng người Bayern chiếm ưu thế ngoại trừ khu vực hồ Constance ở phía tây do người Alemanni (Vorarlberg) chiếm đóng. Các nhóm cư dân Celto-Romanic (Walchen hay Welsche) vẫn tồn tại như xung quanh Salzburg, các địa danh La Mã vẫn tồn tại như Juvavum (Salzburg). Ngoài ra, dân số này được phân biệt bởi Cơ đốc giáo và ngôn ngữ của họ, một phương ngữ Latinh (tiếng Romansch). Salzburg là giáo phận (739) và đến năm 798 là một tổng giáo phận.

Mặc dù người Bayern Đức dần dần thay thế tiếng Romansch làm ngôn ngữ chính, họ đã áp dụng nhiều phong tục của người La Mã và ngày càng được Kitô giáo hóa. Tương tự ở phía đông, tiếng Đức đã thay thế tiếng Slav. Các nước láng giềng của Áo là Công quốc Bayern ở phía Tây, Vương quốc Bohemia và Ba Lan ở phía Bắc, Vương quốc Hungary ở phía Đông và Công quốc Kärnten ở phía Nam. Vào lúc này, Áo vẫn phụ thuộc vào Bayern và là một nước tương đối nhỏ.

Các phiên hầu tước nhà Babenberg kiểm soát rất ít lãnh thổ của Áo ngày nay. Salzburg về mặt lịch sử là một phần của Bayern nhưng đã trở thành một lãnh thổ của giáo hội trong khi Steiermark là một phần của Công quốc Kärnten. Nhà Babenberg nắm giữ tương đối ít lãnh thổ, không chỉ Salzburg mà các vùng đất Giáo phận Passau cũng nằm trong tay giáo hội và giới quý tộc kiểm soát phần lớn lãnh thổ còn lại. Tuy nhiên, họ đã bắt tay vào một quá trình củng cố quyền lực bằng cach tuyển dụng những người hầu cận như gia tộc Kuenringern làm Ministerialis (Bộ trưởng) và được giao các trọng trách lớn về hành chính và quân sự.[15] Triều đại nhà Babenberg tồn tại nhờ vận may và kỹ năng chính trị quyền lực giữa lúc bị chi phối bởi cuộc đấu tranh quyền lực giữa hoàng đế và giáo hoàng.

Con đường không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Phiên hầu tước đời thứ năm, Leopold II 'Người công bằng' (Luitpold der Schöne) (1075–1095) đã bị Hoàng đế Heinrich IV (1084–1105) phế truất tạm thời sau khi Leopold đứng về phía sai trong tranh cãi việc bổ nhiệm giáo sĩ. Con trai của Leopold II, Leopold III 'Người tốt' (Luitpold der Heilige) (1095–1136) đã ủng hộ đứa con trai phản nghịch của Heinrich, Heinrich V (1111–1125). Leopold III đã giúp Heinrich V chiến thắng và được tưởng thưởng bằng việc kết hôn với chị gái Heinrich là Agnes von Waiblingen vào năm 1106, qua đó liên minh với Hoàng tộc. Leopold III sau đó tập trung vào việc bình định giới quý tộc. Các cơ sở quyền lực tu viện của ông, đặc biệt là tu viện Klosterneuburgtu viện Heiligenkreuz đã giúp ông được phong thánh vào năm 1458 và ông trở thành vị thánh bảo trợ của Áo.[16]

Liên minh với Bayern vào năm 1139

Leopold III được kế vị bởi con trai của ông, Leopold IV 'Người rộng lượng' (Luitpold der Freigiebige) (1137–1141). Leopold IV đã nâng cao vị thế của Áo khi trở thành Công tước Bayern vào năm 1139, hiệu là Leopold I. Bản thân Bayern đã nằm trong tay của nhà Welf (Guelph), những người đã đấu trí với vương tộc Staufer. Sau khi lên ngôi hoàng đế vào năm 1138 với tư cách là Konrad III (1138–1152); Công tước Bayern, Heinrich Kiêu hãnh tự xem mình là ứng cử viên cho vương miện hoàng đế và phản đối việc bầu chọn Konrad và sau đó bị tước Công quốc, Công quốc được trao cho Leopold IV. Khi Leopold chết, các vùng đất của ông được thừa kế bởi anh trai Heinrich II (Heinrich Jasomirgott) (1141–1177).

Cùng lúc đó, Konrad được cháu trai Friedrich I Barbarossa (1155–1190) kế vị làm hoàng đế và tìm cách chấm dứt các cuộc xung đột nội bộ Đức. Cuối cùng, ông trả lại Bayern cho nhà Welf vào năm 1156 nhưng khi sự đền bù đã nâng vị thế Áo thành công quốc thông qua văn kiện Privilegium Minus. Heinrich II do đó trở thành Công tước Áo để đổi lấy việc từ bỏ tước hiệu Công tước Bayern.

Công quốc Áo (1156–1246)

Áo bây giờ là một quốc gia độc lập trong Đế chế La Mã Thần thánh và Heinrich II đã chuyển nơi cư trú chính của mình đến Vienna vào năm đó.

Leopold Đạo đức và hợp nhất với Steiermark (1177–1194)

Năm 1186, Hiệp ước Georgenberg giúp Áo sáp nhập được nước láng giềng phía nam. Công quốc Steiermark thuộc về Áo vào năm 1192 sau khi Công tước Steiermark Ottokar IV chết mà không có con nối dõi. Steiermark trở thành huyện biên giới phía bắc Kärnten và trở thành Công quốc vào năm 1180. Lãnh thổ của Công quốc Steiermark lúc đó lớn hơn nhiều so với Steiermark ngày nay, bao gồm cả các phần thuộc Slovenia ngày nay (Hạ Steiermark) và cả các phần thuộc Thượng Áo (Traungau, khu vực xung quanh Wels, Steyr) và Hạ Áo (quận Pitten, các quận Wiener NeustadtNeunkirchen ngày nay).

Công tước Áo đời thứ hai, con trai của Heinrich II là Leopold V Đạo đức (Luitpold der Tugendhafte) (1177–1194) trở thành Công tước của vùng đất mới này. Leopold V nổi tiếng nhờ bỏ tù vua Anh Richard I sau cuộc Thập tự chinh lần thứ ba (1189–1192) vào năm 1192 tại Dürnstein. Số tiền chuộc mà ông nhận được đã giúp tài trợ cho nhiều dự án của mình.

Vào thời điểm đó, các công tước nhà Babenberg là những người cai trị có ảnh hưởng nhất trong khu vực, đạt đến đỉnh cao dưới triều đại của cháu trai Heinrich là Leopold VI Vinh quang (Luitpold der Glorreiche) (1198–1230), Công tước đời thứ tư.[12] Dưới sự cai trị của các công tước nhà Babenberg, văn hóa thời Trung kỳ Trung cổ đã phát triển mạnh mẽ, nổi bật là sự ra đời của Nghệ thuật Gothic.

Friedrich II Kẻ hiếu chiến: Phân chia đất đai và kết thúc triều đại (1230–1246)

Khi Leopold qua đời, ông được kế vị bởi con trai Friedrich II Kẻ hiếu chiến (Friedrich der Streitbare) (1230–1246). Năm 1238, ông chia đất nước thành hai khu vực lấy ranh giới là sông Enns. Phần phía trên Enns trở thành Ob (erhalb) der Enns (thượng sông Enns) hay 'Thượng Áo' (Oberösterreich), các tên khác như supra anasum (từ một tên Latinh cũ của con sông) và Austria superior cũng được sử dụng. Những vùng đất phía dưới Enns hoặc unter der Enns được gọi là Hạ Áo (Niederösterreich). Traungau và Steyr tách khỏi Steiermark và trở thành một phần của Thượng Áo. Một trong những thành tựu khác của Friedrich là Sắc chỉ Bảo vệ người Do Thái năm 1244.[17]

Friedrich đã bị giết trong trận sông Leitha chống lại người Hungary và không có đứa con nào sống sót. Do đó, vương triều nhà Babenburg tuyệt tự vào năm 1246.

Thời kì không vua (1246–1278)

Vương quốc của Otakar II.

Sau cái chết của Friedrich II, Công quốc Áo rơi vào thời kì không có vua kéo dài vài thập kỷ, đất nước trở thành nạn nhân của trò chơi quyền lực kéo dài giữa các thế lực đối địch. Trong thời gian này, có nhiều người tranh giành ngai vàng. Một trong số đó là Vladislav, Phiên hầu tước Morava, con trai của vua Václav I của Bohemia. Vua Václav I nhắm đến việc chiếm hữu Công quốc Áo bằng cách sắp xếp cuộc hôn nhân của Vladislav với cháu gái cuối cùng của Friedrich là Gertrud, cô ấy là người thừa kế tiềm năng.

Theo Privilegium Minus do Hoàng đế Friedrich Barbarossa ban hành năm 1156, các vùng đất của Áo có thể do nữ giới thừa kế. Vladislav nhận được sự tôn kính của giới quý tộc Áo nhưng không may qua đời ngay sau đó vào ngày 3 tháng 1 năm 1247 trước khi ông sở hữu được công quốc. Người tiếp theo là Hermann xứ Baden vào năm 1248. Ông cũng muốn giành Công quốc Áo thông qua hôn nhân với Gertrud nhưng không được sự ủng hộ của giới quý tộc. Hermann qua đời năm 1250. Tham vọng của ông được con trai ông là Friedrich tiếp nhận nhưng bị cản trở bởi cuộc xâm lược Áo của người Bohemia.

Trong nỗ lực chấm dứt tình trạng hỗn loạn, một nhóm quý tộc Áo đã mời vua Bohemia, Otakar II nhà Přemysl (anh trai của Vladislav) trở thành người cai trị nước Áo vào năm 1251. Cha của ông đã âm mưu xâm lược Áo vào năm 1250. Sau đó, Otakar tiến hành liên minh với nhà Babenberg qua hôn nhân với Margarete, con gái của Leopold VI vào năm 1252 và do đó là người có quyền lên ngôi vua. Ông đã khuất phục những quý tộc cứng đầu và trở thành người cai trị hầu hết khu vực gồm Áo, Steiermark và Kärnten.

Otakar là một nhà lập pháp và xây dựng. Một trong số những thành tựu của ông là việc xây dựng Cung điện Hofburg ở Vienna. Otakar đang ở vị thế có thể thành lập một đế chế mới do sự suy yếu của Đế chế La Mã Thần thánh sau cái chết của Friedrich II (1220–1250), đặc biệt là sau khi triều đại nhà Hohenstauffen kết thúc vào năm 1254 với cái chết của Konrad IV và mở ra thời kì không vua của Đế quốc sau đó (1254–1273). Otakar đã tìm cách lên ngôi hoàng đế nhưng không thành công.

Sự đàn áp tôn giáo

Trong Thời kì không vua, Áo là nơi những kẻ dị giáo bị Pháp đình tôn giáo đàn áp dữ dội. Những trường hợp đầu tiên xuất hiện vào năm 1260 tại hơn bốn mươi giáo xứ ở vùng phía nam sông Danube giữa Salzkammergutrừng Vienna và chủ yếu chống lại người theo giáo phái Waldo.

Sự trỗi dậy của nhà Habsburg và cái chết của Otakar (1273–1278)

Otakar lại tranh ngai Hoàng đế vào năm 1273 nhưng gần như bị cô lập. Lần này, ông từ chối chấp nhận quyền lực của tân Hoàng đế, Rudolf nhà Habsburg (Hoàng đế 1273–1291). Vào tháng 11 năm 1274, Nghị hội Hoàng gia tại Nuremberg ra phán quyết rằng tất cả các lãnh thổ đế quốc bị chiếm giữ kể từ khi Hoàng đế Friedrich II (1250) chết phải được khôi phục và vua Otakar II phải trả lời trước Nghị hội lí do không công nhận tân hoàng đế. Otakar từ chối xuất hiện hoặc trả lại các công quốc Áo, Steiermark, Kärnten và huyện biên giới Krain mà ông có được thông qua người vợ đầu, một người thừa kế nhà Babenberg khi tranh chấp chúng với một người thừa kế nhà Babenberg khác, Phiên hầu tước Hermann VI của Baden.

Rudolf không công nhận quyền thừa kế của Otakar đối với lãnh thổ nhà Babenberg, tuyên bố rằng các tỉnh phải được trả lại cho triều đình do thiếu người thừa kế nam (mâu thuẫn với các Privilegium Minus của Áo). Vua Otakar bị đặt dưới lệnh cấm của hoàng gia; và vào tháng 6 năm 1276, Rudolf tuyên chiến chống lại Otakar và vây hãm thành Vienna. Sau khi thuyết phục cựu đồng minh của Otakar là Công tước Heinrich XIII của vùng Hạ Bayern đổi phe, Rudolf đã buộc vua Bohemia nhượng bốn tỉnh cho triều đình kiểm soát vào tháng 11 năm 1276.

Otakar sau khi từ bỏ các lãnh thổ của mình bên ngoài lãnh thổ Séc, Rudolf tái bố trí ông ta ở Vương quốc Bohemia, hứa hôn với con gái út Guta nhà Habsburg cho con trai của Otakar là Václav II) và khải hoàn thắng tiến vào Vienna. Để gây áp lực yêu cầu Rudolf thực thi hiệp ước, Otakar đã liên minh với một số thủ lĩnh Piast của Ba Lan và thu hút sự ủng hộ của một số vương công Đức và bao gồm cả Heinrich XIII của Hạ Bayern. Để đối phó liên minh này, Rudolf đã thành lập một liên minh với vua László IV của Hungary và trao thêm đặc quyền cho người dân Vienna.

Vào ngày 26 tháng 8 năm 1278, quân đội hai phe đã gặp nhau trong trận Marchfeld phía đông bắc Vienna, nơi Otakar bị đánh bại và bị giết. Phiên hầu quốc Morava bị khuất phục và chính quyền được giao cho đại diện của Rudolf, người vợ góa Kunigunda của Slavonia của Otakar chỉ còn kiểm soát tỉnh xung quanh Praha trong khi Václav II một lần nữa được hứa hôn với Guta.

Rudolf trở thành người nắm quyền kiểm soát tuyệt đối ở Áo với tư cách là Công tước Áo và Steiermark (1278–1282). Áo sau đó vẫn nằm dưới quyền cai trị của nhà Habsburg trong hơn sáu thế kỷ cho đến năm 1918.

Thành lập triều đại nhà Habsburg: Công quốc Áo (1278–1453)

Rudolf nhà Habsburg, Nhà thờ chính tòa Speyer nơi ông được chôn cất.

Áo và Đế chế nằm dưới vương miện Habsburg trong vài thế kỷ (1438) và vẫn gần như liên tục (xem bên dưới) cho đến năm 1806 khi đế chế bị giải thể, hạn chế các cuộc xung đột vốn xảy ra thường xuyên trước đó.

Rudolf I và chế độ trưởng nam thừa kế (1278–1358)

Rudolf I đã dành vài năm để thiết lập quyền lực của mình ở Áo khi nhận thấy một số khó khăn trong việc để các thành viên trong gia tộc làm người cai trị các tỉnh. Từ lâu, sự thù địch của các vương công đã được loại bỏ và ông có thể truyền lại Áo cho hai con trai của mình. Vào tháng 12 năm 1282, tại Nghị hội Augsburg, Rudolf truyền lại các công quốc Áo và Steiermark cho các con trai của mình, Albrecht I (1282–1308) và Rudolf II Phóng khoáng (1282–1283) với tư cách là những người đồng cai trị "cùng nhau và độc lap", đặt nền móng cho nhà Habsburg. Rudolf vẫn tiếp tục các chiến dịch chinh phục và khuất phục thêm các đô thị. Sau khi Rudolf I chết vào năm 1291, triều đình ở Áo vẫn còn bất ổn khi Công quốc Áo thường được chia sẻ giữa các thành viên trong gia tộc. Tuy nhiên, Rudolf đã không thành công trong việc đảm bảo việc kế ngôi hoàng đế cho các Công tước Áo và Steiermark.

Công tước đồng cai trị chỉ tồn tại một năm cho đến khi Hiệp ước Rheinfelden (Rheinfelder Hausordnung) năm 1283 thiết lập trật tự kế vị nhà Habsburg. Công tước Rudolf II khi đó mới mười một tuổi đã phải từ bỏ tất cả các quyền của mình đối với ngai vàng của Áo và Steiermark vì lợi ích của người anh cả Albrecht I. Trong khi Rudolf được cho là sẽ được bồi thường, tuy nhiên, điều này đã không xảy ra. Rudolf II chết vào năm 1290 và con trai ông là Johann sau đó đã sát hại chú của mình là Albrecht I vào năm 1308. Trong một thời gian ngắn, Albrecht I cũng chia sẻ các công quốc với Rudolf III Người tốt (1298–1307) và cuối cùng lên ngôi hoàng đế vào năm 1298.

Sau cái chết của Albrecht I, công quốc được chuyển giao cho con trai ông, Friedrich Công bằng (1308–1330) ít nhất là cho đến năm 1314 khi ông trở thành người đồng cai trị đế quốc với Ludwig IV. Friedrich cũng phải chia sẻ công quốc với anh trai Leopold I Vinh quang (1308–1326). Một người anh em khác, Albrecht II Khôn ngoan (1330–1358) kế vị Friedrich.

Khuôn mẫu cứng nhắc vẫn tồn tại vì Albrecht phải chia sẻ ngôi vương với một người em trai khác là Otto I Vui vẻ (1330–1339) dù ông ta đã cố gắng nhưng không thành công trong việc đặt ra các quy tắc kế vị trong "Quy tắc nhà Albrecht" (Albertinische Hausordnung) . Khi Otto qua đời vào năm 1339, hai con trai của ông là Friedrich II và Leopold II thay thế ông, lập ba Công tước Áo đồng thời từ năm 1339 đến năm 1344 khi cả hai người đều chết ở tuổi thiếu niên. Quyền cai trị độc nhất ở Công quốc Áo cuối cùng đã trở lại khi con trai của Otto là Rudolf IV kế vị vào năm 1358.

Vào thế kỷ 14, nhà Habsburg bắt đầu tích lũy các tỉnh khác lân cận Công quốc Áo, vốn vẫn chỉ là một lãnh thổ nhỏ dọc theo sông Danube và Steiermark mà họ đã giành được từ Otakar. Năm 1335, Albrecht II thừa kế Công quốc Kärnten và huyện biên giới Krain từ những người cai trị bấy giờ, nhà Gorizia.

Rudolf IV và Privilegium Maius (1358–1365)

Rudolf IV Người sáng lập (1358–1365) là người đầu tiên có tước hiệu Đại Công tước Áo thông qua Privilegium Maius năm 1359, thực tế là giả mạo và không được công nhận bên ngoài nước Áo cho đến năm 1453. Tuy nhiên, tước hiệu này đưa ông lên ngang hàng với các tuyển hầu tước khác của Đế chế La Mã Thần thánh. Rudolf là một trong những vị vua năng nổ nhất trong thời đại của mình, khởi xướng nhiều biện pháp và nâng cao vị thế của thành Vienna.

Vào thời điểm đó, Vienna thuộc giáo hội trực thuộc Giáo phận Passau mà Rudolf đã lật đổ bằng cách thành lập thánh đường St. Stephen và bổ nhiệm trưởng mục sư làm Đại chưởng ấn Áo. Ông cũng thành lập Đại học Vienna (Alma Mater Rudolphina). Ông đã cải thiện kinh tế và thành lập một loại tiền tệ ổn định, đồng Pfennig Viên (Wiener Pfennig). Khi ông qua đời vào năm 1365, quyền kế vị được chuyển cho các anh trai ông theo Luật nhà Rudolf (Rudolfinische Hausordnung).

Năm 1363, Quận Tyrol được Rudolf IV mua lại từ Margarete xứ Tyrol. Áo bây giờ là một quốc gia phức tạp ở Đông Alps và những vùng đất này thường được gọi là Vùng đất cha truyền con nối của nhà Habsburg hay đơn giản là Áo vì nhà Habsburg cũng bắt đầu tích lũy các vùng đất xa Vùng đất cha truyền con nối.[18]

Albrecht III và Leopold III: Gia tộc bị chia rẽ (1365–1457)

Gần như trong suốt thế kỷ XV, các tranh chấp trong gia tộc và tranh chấp lãnh thổ đã làm suy yếu đáng kể tầm quan trọng về chính trị và kinh tế của vùng đất nhà Habsburg. Mãi đến năm 1453, dưới triều đại của Friedrich V Hòa bình (1457–1493), đất nước (ít nhất là các lãnh thổ cốt lõi) mới được thống nhất trở lại. Anh em của Rudolf IV là Albrecht III Đuôi samLeopold III Chính nghĩa đã cãi vã không ngừng và cuối cùng đồng ý phân chia lãnh thổ theo hiệp ước Neuberg vào năm 1379, dẫn đến việc chia rẽ thêm sau đó. Lãnh thổ nhà Habsburg được chia làm ba khu vực riêng biệt.

  • Lãnh thổ phía dưới của Áo hoặc Niederösterreich (Thượng và Hạ Áo)
    • Nhánh Albrecht nắm giữ. Khi Nhánh Albrecht tuyệt tự vào năm 1457, lãnh thổ được truyền lại cho nhánh Leopold
  • Các lãnh thổ nội Áo hay Innerösterreich (Steiermark, Kärnten, Krain và Vùng duyên hải Istria và Trieste thuộc Áo)
    • Nhánh Leopold nắm giữ, sau đó là nhánh Ernst Lớn (1406–1457) vẫn tiếp tục giữ Đại Công quốc Áo.
  • Các lãnh thổ ngoại Áo hay Vorderösterreich (Tyrol, Vorarlberg và các lãnh thổ Schwaben và Elsaß)
    • Nhánh Leopold nắm giữ, sau đó là Nhánh Tyrol Nhỏ (1406–1490) được chuyển lại cho nhánh Leopold
Nhánh Albrecht (1379–1457)

Năm 1379, Albrecht III giữ lại Áo và cầm quyền cho đến năm 1395. Ông được kế vị bởi con trai của mình là Albrecht IV (1395–1404) và cháu trai Albrecht V (1404–1439), người đã giành lại ngôi vị hoàng đế cho nhà Habsburg và thông qua việc giành lại lãnh thổ của mình, ông được trở thành một trong những nhà cai trị quyền lực nhất ở châu Âu nếu ông ấy không chết. Khi chết, ông chỉ để lại một người thừa kế mới mà sau khi ông chết bốn tháng mới ra đời (Ladislaus Di cảo 1440–1457). Thay vào đó, người giám hộ và người kế vị của Ladislaus, Friedrich V Hòa bình của nhánh Leopold (1457–1493) là người được hưởng lợi. Nhánh Albrecht đã tuyệt tự, tước hiệu bây giờ được trao lại cho nhánh Leopold. Friedrich nhận thức được tiềm năng trở thành người giám hộ của Ladislaus đến nỗi ông đã từ chối để anh ta cai trị độc lập khi đủ tuổi (12 tuổi ở Áo vào thời điểm đó)[19] và buộc phải thả anh ta do áp lực của giới quý tộc Áo (Liên minh Mailberg 1452).

Nhánh Leopold (1379–1490)

Leopold III giữ các lãnh thổ còn lại, cai trị cho đến năm 1386. Ông được kế vị bởi hai người con trai, Wilhelm Lễ độ (1386–1406) và Leopold IV Béo (1386–1411). Năm 1402, Công quốc lại xảy ra một cuộc chia rẽ khác. Vì Leopold III đã có bốn con trai và cả Leopold IV hay Wilhelm đều không có người thừa kế. Những người anh em còn lại đã phân chia lãnh thổ.

Ernst Sắt (1402–1424) chiếm Nội Áo trong khi Friedrich IV Túi rỗng (1402–1439) chiếm ngoại Áo. Sau khi Wilhelm qua đời vào năm 1406, điều này có hiệu lực chính thức với hai nhánh riêng biệt, nhánh Ernst Lớn và nhánh Tyrol Nhỏ.

Nhánh Ernst (Nội Áo 1406–1457)

Friedrich V (1415–1493) bởi Hans Burgkmair, c. 1500 (Bảo tàng Kunsthistorisches, Vienna). Công tước 1424, Vua 1440, Hoàng đế 1452, Đại Công tước 1457.

Nhánh Ernst bao gồm Ernst và hai người con trai của ông khi ông qua đời vào năm 1424, Albrecht VI Hoang đàng (1457–1463) và Friedrich V Hòa bình (1457–1493). Họ cũng đã tranh chấp với nhau và lần lượt chia cắt vùng mà ngày nay là Hạ và Nội Áo sau cái chết của Ladislaus vào năm 1457 và sự tuyệt tự của nhánh Albrecht. Albrecht chiếm Thượng Áo vào năm 1458 và cai trị ở Linz. Vào năm 1462, Albrecht tiến hành bao vây anh trai ở Cung điện Hofburg ở Vienna và chiếm luôn Hạ Áo. Tuy nhiên, kể từ khi ông mất con vào năm sau (1463), lãnh thổ của ông tự động được chuyển lại cho anh trai mình và Friedrich giờ đã kiểm soát tất cả lãnh thổ của hai nhánh Albrecht và Ernst.

Sự nghiệp chính trị của Friedrich đã thăng tiến một cách đáng kể kể từ khi ông thừa kế Công quốc Áo năm 1424. Từ một Công tước, ông trở thành Vua Đức, hiệu là Friedrich IV vào năm 1440 và trở thành Hoàng đế La Mã Thần thánh, hiệu là Friedrich III (1452–1493).

Nhánh Tyrol (Hạ Áo) 1406–1490Nhánh Tyrol gồm có Friedrich IV và con trai ông, Siegmund Giàu có (1439–1490). Friedrich chuyển triều đình đến Innsbruck nhưng mất một số lãnh thổ của mình cho Thụy Sĩ. Siegmund đã bán một số đất đai cho Karl Dũng cảm vào năm 1469 và được Hoàng đế Friedrich III phong làm Đại Công tước vào năm 1477. Ông chết không con nhưng vào năm 1490, ông thoái vị do không được ủng hộ và trở lại Ngoại Áo làm Đại Công tước sau đó. Maximilian I Kị sĩ cuối cùng (1490–1493), con trai của Friedrich V là người hiện đã kiểm soát toàn bộ lãnh thổ nhà Habsburg lần đầu tiên kể từ năm 1365.

Đàn áp tôn giáo

Đài tưởng niệm 1997 những người bị Petrus Zwicker thiêu ở Steyr năm 1397.

Tòa án dị giáo cũng hoạt động dưới thời Habsburg, đặc biệt là từ năm 1311 đến năm 1315 khi các phiên tòa dị giáo được tổ chức ở Steyr, Krems, St. Pölten và Vienna. Quan toà tòa án dị giáo Petrus Zwicker đã tiến hành các cuộc đàn áp lớn ở Steyr, Enns, Hartberg, Sopron và Vienna trong khoảng thời gian từ năm 1391 đến năm 1402. Năm 1397 có khoảng 80–100 người phái Waldo bị hỏa thiêu chỉ riêng ở Steyr, hiện được tưởng niệm bằng một tượng đài năm 1997.

Công quốc và Vương quốc

Công quốc Habsburg có 13 Công tước trị vì liên tiếp, trong số đó có 4 Công tước lên ngôi Vua Đức là Rudolf I, Albrecht I, Friedrich Công bằng và Albrecht V (Albrecht II là Vua của Đức). Không ai trong số họ được Giáo hoàng công nhận là Hoàng đế La Mã Thần thánh.

Khi Công tước Albrecht V (1404–1439) được bầu làm hoàng đế vào năm 1438 (hiệu là Albrecht II) với tư cách là người kế vị cha vợ của mình, Sigismund von Luxemburg (1433–1437), vương miện hoàng đế một lần nữa rơi vào tay nhà Habsburg. Mặc dù Albrecht chỉ trị vì một năm (1438–1439) nhưng từ đó trở đi, mọi hoàng đế đều là người nhà Habsburg (chỉ có một ngoại lệ: Karl VII 1742–1745) và những người cai trị Áo cũng là Hoàng đế La Mã Thần thánh cho đến khi Đế quốc La Mã Thần thánh giải thể vào năm 1806.

Đại Công quốc Áo: Trở thành cường quốc (1453–1564)

Bài chi tiết: Đại Công quốc Áo

Friedrich V (1453–1493): Nâng cao vị thế công quốc

Friedrich V Hòa bình (Công tước 1424; Đại Công tước 1453, mất 1493; Hoàng đế Friedrich III 1452–1493) xác nhận Privilegium Maius của Rudolf IV vào năm 1453 và vì vậy Áo trở thành một Đại Công quốc chính thức của Đế chế La Mã Thần thánh, bước tiếp theo để khẳng định uy thế ở châu Âu và Ladislaus Di cảo (1440–1457) là vị vua chính thức đầu tiên một thời gian ngắn và qua đời ngay sau đó. Văn kiện này là giả mạo, được viết bởi Hoàng đế Friedrich I và được "phát hiện lại". Friedrich có động cơ rõ ràng cho việc này. Ông là người nhà Habsburg, còn là Công tước của Nội Áo ngoài việc là Hoàng đế và cho đến năm trước, ông đã từng là người giám hộ của Công tước trẻ của Hạ Áo, Ladislaus. Ông cũng kế thừa danh hiệu của Ladislaus và đã làm như vậy khi Ladislaus qua đời 4 năm sau đó, trở thành Đại Công tước đời thứ hai.

Các Đại Công tước của Áo giờ đây có địa vị ngang bằng với các Tuyển hầu tước khác và có thể được bầu hoàng đế. Việc cai trị Áo bây giờ dựa trên nguyên tắc trưởng nam thừa kế và không thể phân chia lãnh thổ như trước. Sau đó, Áo được chính thức gọi là "Erzherzogtum Österreich ob und unter der Enns" (Đại Công quốc Áo ở tả và hữu ngạn sông Enns). Năm 1861 nó lại được chia thành Thượng và Hạ Áo.

Quyền lực tương đối của hoàng đế trong chế độ quân chủ không lớn vì nhiều gia tộc quý tộc khác theo đuổi quyền lực chính trị của riêng họ trong và ngoài chế độ quân chủ. Tuy nhiên, Friedrich dù mờ nhạt, đã theo đuổi một quy tắc cứng rắn và hiệu quả. Ông theo đuổi quyền lực thông qua các liên minh gia tộc. Năm 1477, , con trai duy nhất của Friedrich là Maximilian (Đại Công tước và Hoàng đế 1493–1519) kết hôn với Marie, Nữ công tước xứ Bourgogne, do đó đã sở hữu hầu hết các Quốc gia vùng thấp. Tầm quan trọng chiến lược của liên minh này là Bourgogne, vốn nằm ở biên giới phía tây của đế chế đang có khuynh hướng bành trướng và vào thời điểm đó là một trong những quốc gia giàu có và hùng mạnh nhất trong số các quốc gia Tây Âu với lãnh thổ trải dài từ miền nam Pháp đến Biển Bắc.

Liên minh đã đạt được với một cái giá không nhỏ vì Pháp, quốc gia cũng tuyên bố chủ quyền với Bourgogne không chấp nhận việc này và Maximilian phải bảo vệ lãnh thổ của người vợ mới khỏi Louis XI, cuối cùng đã làm như vậy sau cái chết của Marie vào năm 1482 tại Hòa ước Arras. Mối quan hệ với Pháp vẫn rất căng thẳng, Louis XI bị đánh bại trong trận Guinegate năm 1479. Các vấn đề với Pháp chỉ được kết thúc vào năm 1493 tại Hiệp ước Senlis sau khi Maximilian trở thành hoàng đế.

Điều này và các liên minh triều đại sau này của Maximilian đã dẫn đến câu nói:[20]

Bella gerant alii, tu felix Austria nube,
Nam quae Mars aliis, dat tibi regna Venus[lower-alpha 1]

mà đã trở thành một phương châm của triều đại. Triều đại của Friedrich là triều đại quan trọng trong lịch sử nước Áo. Ông đã thống nhất các vùng đất cốt lõi bằng cách sống lâu hơn những người còn lại của gia tộc mình. Từ năm 1439, khi Albrecht V qua đời và trách nhiệm đối với cả hai lãnh thổ cốt lõi thuộc về Friedrich, ông đã củng cố một cách có hệ thống cơ sở quyền lực của mình. Năm tiếp theo (1440), ông hành quân đến Roma với tư cách là Vua của người La Mã cùng với đối tác của ông, Ladislaus, công tước cuối cùng của nhánh Albrecht và khi lên ngôi tại Roma vào năm 1452, ông không chỉ là người nhà Habsburg đầu tiên mà còn là vị vua Đức cuối cùng được tấn phong ở Roma bởi Giáo hoàng.[21]

Vương triều đang trên đường trở thành một cường quốc trên thế giới. Khái niệm pietas austriacae (bổn phận cai trị thần thánh bắt nguồn từ Rudolf I nhưng được Friedrich cải tổ lại thành AEIOU, Alles Erdreich ist Österreich untertan hay Austriae est imperare orbi Universalo (Định mệnh của Áo là thống trị thế giới) và trở thành biểu tượng Quyền lực của Áo.[21] Tuy nhiên, không phải tất cả mọi việc đều diễn ra suôn sẻ đối với Friedrich. Chiến tranh Áo-Hung (1477–1488) dẫn đến việc vua Mátyás Corvin của Hungary chiếm đóng Vienna vào năm 1485 cho đến khi ông ta qua đời vào năm 1490. Hungary chiếm toàn bộ miền Đông nước Áo. Friedrich do đó buộc phải thành lập một triều đình lưu vong, chủ yếu ở đóng thủ đô Linz của Thượng Áo.

Maximilian I (1493–1519): Thống nhất

Maximilian I của Albrecht Dürer 1519

Maximilian I chia sẻ quyền cai trị với cha mình trong năm cuối của triều đại Friedrich, được bầu làm Vua của người La Mã vào năm 1486. Thông qua việc sở hữu các vùng đất của nhánh Tyrol của nhà Habsburg vào năm 1490, ông đã thống nhất tất cả các vùng đất Áo, vốn bị chia cắt từ năm 1379. Ông cũng cần giải quyết vấn đề Hungary khi Mátyás I qua đời vào năm 1490. Maximilian đã thu hồi lại các lãnh thổ đã mất của Áo và thiết lập hòa bình với người kế vị của Mátyás là Vladislav II thông qua Hòa ước Pressburg năm 1491. Tuy nhiên, việc phân chia và thống nhất của triều đại sẽ cứ lặp đi lặp lại theo thời gian. Với biên giới bất ổn, Maximilian nhận thấy Innsbruck ở Tyrol là một nơi an toàn hơn để lập thủ đô, nằm giữa vùng đất Burgundia và Áo của ông mặc dù ông hiếm khi ở cố định một nơi nào trong thời gian dài do nỗi sợ hãi sâu sắc về việc cha ông đã bị bao vây nhiều lần ở Vienna.

Maximilian đã nâng nghệ thuật liên minh triều đại lên một tầm cao mới và đặt mục tiêu tạo ra một truyền thống triều đại một cách có hệ thống dù thông qua chủ nghĩa xét lại đáng kể. Marie vợ ông chết năm 1482 chỉ 5 năm sau khi họ kết hôn. Sau đó, ông kết hôn với Anne, Nữ công tước Bretagne (theo ủy quyền) vào năm 1490, một động thái có thể đưa Bretagne lúc đó còn độc lập vào lãnh thổ nhà Habsburg, một hành động có thể được coi là khiêu khích chế độ quân chủ Pháp. Charles VIII của Pháp có những ý tưởng khác và cũng muốn sáp nhập Bretagne thông qua việc kết hôn với Anne, một tình huống phức tạp hơn nữa bởi thực tế là Charles đã hứa hôn với Margarete, nữ công tước nhà Savoyen, con gái của Maximilian. Con trai của Maximilian, Philipp Công bằng (1478–1506) kết hôn với Juana, nữ hoàng Castile và Aragon vào năm 1496 và do đó giúp nhà Habsburg sở hữu Tây Ban Nha và các phần thuộc Ý (Vương quốc Napoli, Vương quốc SiciliaSardegna), các vương quốc phụ thuộc ở Châu Phi và Tân Thế giới.

Tu felix Austria nube có lẽ lãng mạn hơn là thực tế vì Maximilian cũng không ngần ngại dùng chiến tranh khi nó phù hợp với mục đích của ông. Để giải quyết các vấn đề với Pháp, vào năm 1493, ông sớm tham gia vào các cuộc Chiến tranh kéo dài ở Ý chống lại Pháp (1494–1559). Ngoài các cuộc chiến tranh với Pháp còn có các cuộc chiến tranh giành độc lập của Thụy Sĩ. Chiến tranh Schwaben năm 1499 đánh dấu giai đoạn cuối cùng của cuộc đấu tranh chống lại nhà Habsburg. Sau thất bại trong trận Dornach năm 1499, Áo buộc phải công nhận nền độc lập của Thụy Sĩ tại Hiệp ước Basel năm 1499, một tiến trình cuối cùng được chính thức hóa bởi Hòa ước Westfalen năm 1648. Đây là một sự kiện rất quan trọng vì nhà Habsburg có nguồn gốc từ Thụy Sĩ, quê hương của tổ tiên họ là Lâu đài Habsburg.

Trong chính sách đối nội, Maximilian đã đưa ra một loạt cải cách tại Nghị hội Worms năm 1495, tại đó Triều đình Đế quốc (Reichskammergericht) được thành lập với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất. Một thể chế mới khác của năm 1495 là Reichsregiment hay chính phủ Đế quốc, họp tại Nuremberg. Cuộc thực thi dân chủ sơ khai này đã thất bại và bị giải thể vào năm 1502. Những nỗ lực nhằm tạo ra một nhà nước thống nhất đã không thành công lắm mà thay vào đó, ý tưởng về ba bộ phận của Áo đã tồn tại trước khi Friedrich và Maximilian thống nhất.[22]

Thiếu tiền cho các kế hoạch khác nhau của mình, ông chủ yếu dựa vào các gia tộc ngân hàng như nhà Fugger và chính các chủ ngân hàng này đã hối lộ các đại cử tri của vương công để chọn cháu trai của Maximilian là Karl làm người kế vị. Một truyền thống mà ông đã bỏ là phong tục hàng thế kỷ rằng Hoàng đế La Mã Thần thánh phải được Giáo hoàng tấn phong ở Roma. Không thể đến được Roma do sự thù địch của người Venizia, năm 1508, Maximilian, với sự đồng ý của Giáo hoàng Giuliô II, đã lấy tước hiệu Erwählter Römischer Kaiser ("Hoàng đế La Mã được chọn"). Vì vậy, cha ông Friedrich là vị hoàng đế cuối cùng được Giáo hoàng tấn phong ở Roma.

Karl I và Ferdinand I (1519-1564)

Karl I, do. Lambert Sustris vẽ năm 1548, Museo del Prado, Madrid, Tây Ban Nha

Kể từ khi Philipp Công bằng (1478–1506) qua đời trước khi cha ông là Maximilian, việc kế vị được truyền cho con trai của Philipp, Karl I (1519–1521), người trở thành Hoàng đế Karl V sau khi Maximilian chết vào năm 1519. Ông trị vì như một hoàng đế từ năm 1519 đến 1556. Khi sức khỏe yếu, ông thoái vị và qua đời năm 1558. Mặc dù được Giáo hoàng Clêmentê VII tấn phong tại Bologna năm 1530 (Karl đã cướp phá Roma năm 1527), ông là hoàng đế cuối cùng từng được Giáo hoàng tấn phong. Mặc dù cuối cùng ông không còn muốn xây dựng chế độ quân chủ phổ quát, Karl I vẫn được coi là người quyền lực nhất của nhà Habsburg. Thủ tướng của ông, Mercurino Gattinara nhận xét vào năm 1519 rằng Karl đang "trên đường dẫn đến chế độ quân chủ phổ quát ... thống nhất tất cả Kitô hữu dưới một vương trượng",[23] đưa ông đến gần hơn với tầm nhìn của Friedrich V về AEIOU và phương châm Plus ultra của Karl (ngày càng tiến xa) cho thấy đây là tham vọng của ông ta.[24]

Áo thời Cải cách và Phản Cải cách (1517–1564)

Martin Luther và cuộc Cải cách Tin lành (1517–1545)

Khi Martin Luther viết 95 luận đề của mình trước cửa nhà thờ Các ThánhWittenberg vào năm 1517, ông đã thách thức chính nền tảng của Đế chế La Mã Thần thánh, Cơ đốc giáo Công giáo và do đó xem như thách thức cả quyền bá chủ của nhà Habsburg. Sau khi Hoàng đế Karl V thẩm vấn và kết án Luther tại Nghị hội Worms năm 1521, học thuyết Lute và Cải chánh Tin lành đã lan nhanh trong lãnh thổ Habsburg. Được tạm thời thoát khỏi chiến tranh với Pháp theo Hiệp ước Cambrai năm 1529 và việc các hoàng tử theo đạo Tin lành ở Speyer tuyên bố năm đó, Hoàng đế xem xét lại vấn đề tiếp theo tại Nghị hội Augsburg vào năm 1530, vào thời điểm đó nó đã được thành lập.

Với mối đe dọa từ Ottoman ngày càng tăng (xem bên dưới), ông cần đảm bảo rằng đất nước không phải đối mặt với một cuộc ly giáo Cơ đốc giáo lớn. Ông bác bỏ quan điểm của các tín đồ giáo hội Luther (Tuyên bố Augsburg) ( Confessio Augustana ) với Confutatio Augustana và Ferdinand được bầu làm Vua của người La Mã vào ngày 5 tháng 1 năm 1531, đảm bảo sự kế vị của ông với tư cách là một quốc vương Công giáo. Đáp lại, các hoàng thân và điền chủ theo đạo Tin lành thành lập Liên minh Schmalkaldic vào tháng 2 năm 1531 với sự hậu thuẫn của Pháp. Những bước đi mới của Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1532 (yêu cầu ông phải nhờ đến sự trợ giúp của đạo Tin lành) và các cuộc chiến khác khiến hoàng đế không thể hành động thêm trên mặt trận này cho đến năm 1547 khi quân triều đình đánh bại Liên minh Schmalkaldic trong trận Mühlberg, Karl một lần nữa lại áp đặt đạo Công giáo.

Năm 1541, lời kêu gọi của Ferdinand đối với các tướng lĩnh viện trợ chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ đã được đáp ứng bởi nhu cầu về sự khoan dung tôn giáo. Chiến thắng năm 1547 hóa ra chỉ tồn tại trong thời gian ngắn khi các lực lượng Pháp và Tin lành một lần nữa thách thức hoàng đế vào năm 1552 mà đỉnh điểm là Hòa ước Augsburg năm 1555. Quá mệt mỏi, Karl bắt đầu rút lui khỏi chính trường và giao lại quyền lực. Đạo Tin lành đã quá vững chắc nên không thể nhổ bỏ nó được nữa.

Áo và các tỉnh cha truyền con nối khác của nhà Habsburg (cả Hungary và Bohemia) đã bị ảnh hưởng nhiều bởi cuộc Cải cách, ngoại trừ Tyrol, các vùng đất của Áo đã cấm cửa đạo Tin lành. Mặc dù bản thân những người cai trị nhà Habsburg vẫn theo đạo Công giáo nhưng các tỉnh không thuộc Áo phần lớn đã chuyển sang học thuyết Lute, chủ nghĩa mà Ferdinand I hầu như đã chấp nhận.

Phản cải cách (1545–1563)

Phản ứng của Công giáo đối với Cải cách Tin lành là một phản ứng bảo thủ nhưng đã có một phản ứng giải quyết các vấn đề mà Luther nêu ra. Năm 1545, Công đồng Trentô bắt đầu cải cách và Phong trào Phản Cải cách ở biên giới của các vùng đất nhà Habsburg. Công đồng hoạt động không liên tục cho đến năm 1563. Ferdinand và các quốc vương nhà Habsburg ở Áo đã khoan dung hơn nhiều so với các anh em Tây Ban Nha của họ và quá trình bắt đầu tại Trento. Tuy nhiên, những nỗ lực của ông trong việc hòa giải tại Công đồng vào năm 1562 đã bị từ chối và dù đã có một cuộc phản công của Công giáo đã xảy ra trong lãnh thổ vương triều Habsburg từ những năm 1550 nhưng là do sự thuyết phục do các tu sĩ Dòng Tên và Peter Canisius. Ferdinand vô cùng hối hận vì đã thất bại trong việc hòa giải những khác biệt tôn giáo trước khi qua đời (1564).[25]

Sự xuất hiện của người Ottoman (1526–1562)

Khi Ferdinand I kết hôn với vương triều Hungary vào năm 1521, Áo lần đầu tiên chạm trán với sự bành trướng của [[Đế chế Ottoman] người Ottoman]] ở phía tây, nơi họ có lần đầu tiên xung đột với Hungary từ những năm 1370. Vấn đề đi đến hồi kết khi người em vợ Anna, vị vua trẻ tuổi Lajos bị giết khi chiến đấu với quân Thổ Nhĩ Kỳ dưới quyền Suleiman Đại đế tại trận Mohács năm 1526, tước vị được trao cho Ferdinand. Góa phụ Mária của Lajos đã chạy trốn để tìm kiếm sự bảo vệ từ Ferdinand.

Người Thổ Nhĩ Kỳ ban đầu rút lui sau chiến thắng này và xuất hiện trở lại vào năm 1528, họ tiến về Vienna bao vây nó vào năm sau. Họ rút lui vào mùa đông đó cho đến năm 1532 khi bước tiến của họ bị chặn lại bởi Karl V dù họ đã kiểm soát phần lớn Hungary. Ferdinand sau đó buộc phải công nhận Szapolyai János. Người Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục gây chiến giữa năm 1537 và một hiệp định đình chiến tạm thời vào năm 1547 đã chia cắt Hungary. Tuy nhiên, các cuộc xung đột tiếp theo gần như đến ngay lập tức cho đến khi Hiệp ước Constantinople năm 1562 xác nhận biên giới năm 1547. Mối đe dọa từ Ottoman tồn tại trong 200 năm sau đó.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lịch_sử_Áo http://www.fraueninbewegung.onb.ac.at/Pages/Histor... http://www.aeiou.at/aeiou.film.data.film/o254a.mpg http://www.akustische-chronik.at/ http://en.doew.braintrust.at/doew.html http://www.wien.gv.at/english/history/commemoratio... http://www.staatsvertrag.at/ http://www.wagna.at/flaviasolva/sites/flavia2.html http://rbedrosian.com/Ref/Bury/ieb6.htm http://senses-artnouveau.com/biography.php?artist=... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,8...